Chi tiết - Huyện Vĩnh Linh

Chuyên đề năm 2022 (P2): Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về đổi mới sáng tạo

Cổng TTĐT huyện Vĩnh Linh tiếp tục giới thiệu phần 2 Chuyên đề năm 2022 về “Học tập tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về thực hiện trách nhiệm nêu gương; Đổi mới sáng tạo; Khơi dậy ý chí tự lực, tự cường, khát vọng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đưa tỉnh Quảng Trị phát triển nhanh, bền vững”.

Nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về đổi mới sáng tạo

Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cuộc đời một con người trọn đời vì dân, vì nước. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Chính lòng yêu nước nồng nàn, ý thức trách nhiệm trước vận mệnh đất nước, dân tộc là động lực thôi thúc Người nung nấu tinh thần đổi mới từ rất sớm, đổi mới không ngừng.

Thuật  ngữ  và  tư  tưởng “đổi  mới” được  Chủ  tịch  Hồ Chí Minh đề cập từ sớm trong tác phẩm “Đường cách mệnh” năm 1927; sau đó, được Người nhắc lại, làm rõ thêm trong nhiều bài viết, bài nói, nổi bật là “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947), “Đời sống mới” (năm 1947), “Dân vận” (năm 1949), đặc biệt là trong bản “Di chúc” thiêng liêng. Tất cả toát lên một hệ thống luận điểm có giá trị nền tảng và định hướng rất rõ nét về “đổi mới”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “đổi mới” là bản chất của cách mạng, của phát triển. Trong “Đường cách mệnh”, Người chỉ rõ: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Nói về công cuộc kiến thiết đất nước sau khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước thắng lợi, Người nhấn mạnh: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”.

Triết lý đổi mới, chân lý đổi mới trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ích nước, lợi dân. Người luôn căn dặn: “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý”“Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Người quan niệm, “đổi mới” phải xuất phát từ nhu cầu khách quan của thực tiễn, phù hợp với điều kiện thực tiễn và giải quyết hiệu quả những đòi hỏi của thực tiễn. Bởi thực tiễn là xuất phát điểm của tư duy, của hành động và là sự kiểm chứng chân lý khoa học. Người căn dặn: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính”. Chính vì thế mà tìm tòi, sáng tạo cái mới, phải luôn gắn với thực tiễn, chú trọng tổng kết thực tiễn, lấy hiệu quả thực tiễn làm thước đo tính đúng đắn của đổi mới.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “đổi mới” không phải là phủ định sạch trơn, mà là sự kế thừa và phát triển; cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ, cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý, cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm, cái gì mới mà hay thì phải làm.

Người cũng khẳng định: Đảng là linh hồn của đổi mới; cán bộ, đảng viên phải đi tiên phong trong sự nghiệp đổi mới. Đảng phải vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng của Việt Nam để thực hiện đường lối, chủ trương đúng đắn. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. Hệ thống luận điểm về “đổi mới” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được diễn đạt giản dị, dễ hiểu, nhưng hàm chứa chiều sâu, tầm cao về tư tưởng và đúc kết tinh túy đạo đức đổi mới, phong cách đổi mới của Người.

Bên cạnh đó, ở Hồ Chủ tịch còn có phong cách tư duy sáng tạo. Đó là vận dụng quy luật chung cho phù hợp với cái riêng, cái đặc thù. “Sáng tạo” còn là sẵn sàng từ bỏ những cái cũ đã lỗi thời, không phù hợp với thực tiễn. Đồng thời, “sáng tạo” là tìm tòi, đề xuất những cái mới để trả lời những đòi hỏi mà cuộc sống đặt ra. Cái mới là cái chưa từng có trong tiền lệ lịch sử. Cái mới có thể kế thừa cái cũ, bổ sung giá trị mới, làm cho cái mới khác về chất so với cái cũ. Cái mới, cái sáng tạo, theo Người phải phù hợp với quy luật khách quan, đồng thời phù hợp với quy luật phát triển chung của xã hội loài người.

Từ năm 1911, khi đất nước còn chìm trong đêm dài nô lệ, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã quyết định đi tìm chân lý cứu nước, với một hướng đi mới, một phương pháp tiếp cận mới, phương thức hành động mới. Đi về phương Tây, tiếp thu những trào lưu tư tưởng mới, khảo nghiệm những cuộc cách mạng điển hình trên thế giới; “tắm mình” trong phong trào cách mạng của giai cấp vô sản và cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức, bóc lột; đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra chân lý cứu nước và con đường giải phóng cho dân tộc. Đó là cuộc đổi mới, sáng tạo vĩ đại đầu tiên của Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh, được thực hiện bằng một dự cảm thiên tài, một cuộc khảo nghiệm, đúc kết lịch sử, cách mạng nghiêm cẩn, khoa học, mang ý nghĩa quyết định đến vận mệnh của đất nước, của dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là Cách mạng Tháng Mười Nga mà còn đổi mới tư duy trong xây dựng đường lối chiến lược và đổi mới phương thức lãnh đạo, dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân giành độc lập, tự do; xây dựng Nhà nước cách mạng, tiến hành sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc; đánh bại các cuộc chiến tranh xâm lược, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất đất nước; từng bước đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, khắc phục đói nghèo, lạc hậu,... Tư duy đổi mới sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với điều kiện của Việt Nam và các nước thuộc địa, nhất là tư tưởng về Đảng Cộng sản cầm quyền, về cách mạng thuộc địa, về đại đoàn kết toàn dân tộc và xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về nhà nước dân chủ nhân dân, về chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước thuộc địa nửa phong kiến,...là những cống hiến quan trọng vào kho tàng lý luận cách mạng thế giới, làm mới mẻ, sinh động và tăng thêm sức sống tiềm tàng của chủ nghĩa xã hội khoa học.

Trong phong cách làm việc, ứng xử, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện sự đổi mới sáng tạo, linh hoạt và biến hóa. Người nói: “Tư tưởng bảo thủ như là sợi dây cột chân, cột tay người ta... Muốn tiến bộ thì phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm”. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng đến khi Người từ trần (1941- 1969), là một công cuộc đổi mới liên tục của Đảng, nhân dân ta theo ngọn cờ và sự dẫn dắt của “Tổng công trình sư” đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh.

Đặc biệt, “Di chúc” của Người là bản phác thảo những đường nét chung nhất, bao quát nhất về công cuộc cải biến vĩ đại, nhằm xóa bỏ những gì cũ kỹ, lạc hậu để sáng tạo ra những giá trị mới, cuộc sống mới. Bác chỉ rõ điều mong muốn cuối cùng là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kết tinh trong bản “Di chúc” lịch sử, là nền tảng tư tưởng, tinh thần của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo từ Đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay.

Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã soi sáng con đường đổi mới của Đảng, của nhân dân ta. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, năm 1986 - Đại hội khai phóng con đường đổi mới, trên cơ sở quán triệt những luận điểm cốt lõi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta quyết tâm phát động, lãnh đạo công cuộc đổi mới. Đường lối đổi mới của Đảng luôn thấm nhuần sâu sắc tư tưởng đổi mới của Người, đã làm sáng tỏ những nhận thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trở thành ngọn cờ dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, mở rộng hoạt động đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đặc biệt, tại Đại hội XIII, năm 2021, Đảng đặt ra yêu cầu “Thúc đẩy đổi mới sáng tạo” nhằm tạo động lực mạnh mẽ cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, “tư tưởng đổi mới sáng tạo” là tư tưởng cách mạng, khoa học trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với tinh hoa văn hóa dân tộc, nhân loại, phản ánh và giải quyết những nhu cầu khách quan của thực tiễn đất nước; “đạo đức đổi mới sáng tạo” là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của dân tộc, Tổ quốc lên trên hết, trước hết, đổi mới sáng tạo vì một nước Việt Nam độc lập, hòa bình, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh; “phong cách đổi mới” là kiên định, sáng tạo, dân chủ, thực tiễn, hiệu quả, nói đi đôi với làm, làm thiết thực, mang lại kết quả thực tế cho nhân dân, cho đất nước. Đó chính là những giá trị bền vững của tư tưởng, đạo đức, phong cách đổi mới sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Sự cần thiết đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về đổi mới sáng tạo ở Quảng Trị hiện nay

Trải qua hơn 90 năm xây dựng, trưởng thành, đặc biệt là sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ tỉnh Quảng Trị luôn khắc ghi lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và từng bước thực hiện những chỉ dẫn của Người về “đổi mới sáng tạo” vào thực tiễn của một tỉnh còn nhiều khó khăn thuộc vùng Bắc Trung bộ. Coi đổi mới là yêu cầu bức thiết, trên cơ sở nắm bắt tình hình, tổng kết thực tiễn, mỗi giai đoạn, tỉnh Quảng Trị đã lựa chọn những điểm mạnh để phát huy, xác định các tiềm năng, lợi thế, dành nguồn lực đầu tư và tập trung chỉ đạo để bứt phá, đưa Quảng Trị chuyển mình mạnh mẽ vươn lên cùng cả nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Trải qua các kỳ đại hội, Đảng bộ tỉnh Quảng Trị luôn bám sát và thực hiện đúng theo chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đổi mới sáng tạo. Đại hội lần thứ XVI, năm 2015, với tư tưởng chỉ đạo: “Đoàn kết, đổi mới, dân chủ và trí tuệ”, Đảng bộ tỉnh xác định mục tiêu: “...Phấn đấu đến năm 2020, Quảng Trị đạt trình độ phát triển trung bình của cả nước”. Đại hội lần thứ XVII, với phương châm: “Đoàn kết, dân chủ, kỷ cương, đổi mới”, Đảng bộ tỉnh xác định mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2025 Quảng Trị trở thành tỉnh có trình độ phát triển thuộc nhóm trung bình cao của cả nước”. 

Đến nay, sau hơn 30 năm lập lại, tỉnh Quảng Trị đã đạt được những kết quả quan trọng, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, tạo nền tảng vững chắc để thực hiện mục tiêu Quảng Trị trở thành tỉnh có trình độ phát triển thuộc nhóm tỉnh khá của cả nước vào năm 2030 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020-2025.

Những thành công có nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến sự nỗ lực, tinh thần làm việc tích cực, sáng tạo, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh. Song, vẫn còn những vấn đề đặt ra, những hạn chế, bất cập cần tập trung nghiên cứu, tìm ra giải pháp khắc phục để đưa tỉnh phát triển nhanh và bền vững hơn như: Kinh tế tăng trưởng khá, nhưng chất lượng chưa thực sự bền vững; một số chỉ tiêu kinh tế quan trọng, cơ bản không đạt so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI. Thu hút đầu tư nước ngoài đạt thấp. Quy mô, năng lực nền kinh tế còn hạn chế để tham gia khai thác hiệu quả từ những thuận lợi của hành lang Kinh tế Đông - Tây mang lại. Một số chương trình, lĩnh vực trọng điểm kinh tế được kỳ vọng mang tính đột phá tiến triển chậm (Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị, tam giác du lịch Cửa Việt - Cửa Tùng - Cồn Cỏ, Cảng biển Mỹ Thủy, Khu Kinh tế Thương mại Lao Bảo...). Quản lý nhà nước về tài nguyên, khoáng sản, bảo vệ môi trường có những hạn chế, bất cập. Việc chuyển giao, nhân rộng các ứng dụng khoa học công nghệ chưa nhiều, nguồn lực xã hội tham gia hoạt động khoa học còn hạn chế...

Những hạn chế, bất cập có nguyên nhân khách quan từ điều kiện khó khăn của tỉnh, nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu: Việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước một số nơi còn thiếu linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả chưa cao. Vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu ở một số cấp ủy, chính quyền chưa được đề cao. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành còn chưa đồng bộ, thiếu kiên quyết. Công tác phối hợp, trao đổi thông tin, đề xuất xử lý những khó khăn, vướng mắc của cơ quan tham mưu chưa thường xuyên, kịp thời. Công tác điều tra, nghiên cứu, phát hiện, dự báo chưa sát với thực tế. Năng lực tham mưu, tổ chức, thực thi chính sách của một bộ phận cán bộ, công chức còn yếu. Một số cán bộ, đảng viên ngại đổi mới, chưa tận tâm, sợ trách nhiệm; còn tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp. Tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, trình độ, năng lực quản lý, tư duy kinh tế của nhiều chủ doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh chưa theo kịp với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Để tận dụng được thời cơ thuận lợi, vượt qua những khó khăn, thách thức Quảng Trị cần có cách tiếp cận độc đáo, khác biệt và khả thi để bứt phá đi lên bằng tư duy đổi mới và cách làm sáng tạo; vừa biết tranh thủ nguồn lực bên ngoài, vừa biết khơi dậy nguồn nội sinh bằng tinh thần tự lực và sức sáng tạo của cấp ủy, chính quyền, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân.

Bước vào giai đoạn mới, với những mục tiêu lớn và nhiệm vụ quan trọng, để tạo ra bước phát triển đột phá, Quảng Trị không thể hài lòng với kết quả ban đầu đạt được, không được tư duy và hành động theo lối mòn mà phải mạnh dạn tiếp tục đổi mới sáng tạo nhằm tạo ra những động lực mới để phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương, tạo đà cho sự phát triển nhanh và bền vững. Để làm được điều đó, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân cần quán triệt, học tập vận dụng vào thực tiễn công tác về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cũng như các chủ trương, đường lối của Đảng về đẩy mạnh đổi mới sáng tạo để phát huy cao nhất sức mạnh nội sinh cho quá trình phát triển của tỉnh.

Quán triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về đổi mới sáng tạo vào thực tiễn tỉnh Quảng Trị

 Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là “đẩy mạnh đổi mới sáng tạo” và được nêu rõ trong chủ đề Đại hội, với quan điểm chỉ đạo là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng.

Kịp thời cụ thể hóa, tập trung lãnh đạo thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nghị quyết của Trung ương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu thực tế của tỉnh. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả... Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, gương mẫu, có uy tín cao với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm...

Đổi mới sáng tạo là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa”. Để thúc đẩy quá trình đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh, mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị, các đơn vị doanh nghiệp, cán bộ, đảng viên và nhân dân phải thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đổi mới sáng tạo. Quyết tâm và kiên trì đổi mới mạnh mẽ hoạt động quản lý, điều hành công việc theo hướng nhanh chóng dỡ bỏ các rào cản để giải phóng tối đa sức sáng tạo của từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi người dân; đổi mới về tư duy trong cụ thể hóa và tổ chức, triển khai chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước vào thực tiễn tỉnh Quảng Trị nói chung, từng cơ quan, đơn vị nói riêng; đổi mới về cách tiếp cận, phát huy có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, cơ quan, đơn vị; chủ động, tiên phong đưa các thành tựu khoa học và công nghệ vào phục vụ quá trình phát triển, tập trung nghiên cứu và thẳng thắn nhìn nhận những khó khăn vướng mắc đang đặt ra để tìm hướng đi phù hợp.

Thực hiện nội dung đổi mới với quyết tâm cao sẽ thúc đẩy, phát huy sự sáng tạo, đổi mới của các cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở trong việc vận dụng chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi địa phương, đơn vị. Từ đó, huy động và khơi dậy nguồn lực trí tuệ, tạo ra những hướng tiếp cận mới, khác biệt cho việc hoạch định được các chủ trương, chính sách đủ mạnh, khả thi trong điều kiện thực tiễn của tỉnh. Để thực hiện được các nhiệm vụ trên cần thực hiện đồng bộ các giải pháp:

Một là, tập trung đổi mới toàn diện, đồng bộ công tác cán bộ, xây dựng tổ chức đảng thực sự là hạt nhân chính trị, đảng viên thực sự là người tiên phong, gương mẫu. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách, thực thi công vụ; sàng lọc, loại bỏ cán bộ, công chức, viên chức yếu về năng lực, trình độ, uy tín giảm sút, có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đồng thời, cụ thể hóa quy định của Trung ương, tạo môi trường, điều kiện khuyến khích, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; bảo vệ cán bộ dám đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động.

Mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện phương pháp làm việc khoa học, thiết thực, hiệu quả; tự học tập, tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt, đặc biệt là kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ và trình độ lý luận chính trị; phải gắn lý luận với thực tiễn để nắm được bản chất khoa học và cách mạng của sự vật, hiện tượng, làm cơ sở cho nhận thức thực tiễn đúng đắn và có biện pháp giải quyết thấu đáo, năng động, sáng tạo, đạt hiệu quả cao. Rèn luyện phong cách làm việc có kế hoạch, có chuẩn bị, có sự kiểm tra, giám sát, đánh giá; kế hoạch phải đảm bảo tính thực tiễn, khả thi cao. Phải thường xuyên có sự tìm tòi, đề xuất những ý kiến hay, những phương án tối ưu để thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao; không giáo điều, rập khuôn, không sao chép máy móc, hết sức tránh lối cũ, đường mòn, tự mình suy nghĩ để giải quyết thấu đáo mọi việc, phù hợp với yêu cầu và điều kiện thực tiễn.

Hai là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng trong điều kiện mới. Nâng cao chất lượng ban hành các chủ trương, cơ chế, chính sách phát triển của cấp ủy, chính quyền theo hướng thiết thực, ngắn gọn, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm; chú trọng khâu lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, đôn đốc, sơ kết, tổng kết.

Tập trung lựa chọn các vấn đề bức xúc, nổi cộm, hạn chế, yếu kém ở địa phương, cơ quan, đơn vị để giải quyết dứt điểm theo phương châm “3 rõ” (rõ việc, rõ người chịu trách nhiệm, rõ thời gian hoàn thành). Tăng cường phân cấp, phân quyền, ủy quyền và nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành gắn với ràng buộc trách nhiệm cho từng tổ chức, cá nhân, nhất là người đứng đầu.

Phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải khoa học, dân chủ, gần dân, sát dân, vì dân; bám sát thực tiễn, chịu khó học hỏi, nói đi đôi với làm và làm đến cùng, dứt điểm; có quyết tâm cao, hành động quyết liệt, hiệu quả, không bảo thủ, trì trệ, chống bệnh hình thức và thành tích. Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên.

Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội các cấp đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động bằng các việc làm, mô hình cụ thể, hiệu quả bền vững; phát huy dân chủ, sức mạnh đoàn kết các dân tộc từ giá trị văn hóa truyền thống và sức sáng tạo của mỗi người dân, từng gia đình và cộng đồng dân cư.

Ba là, thực hiện quyết liệt, nghiêm minh kỷ luật, kỷ cương công vụ. Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, năng động, minh bạch, cắt giảm tối đa giao dịch trực tiếp. Nhanh chóng ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước; sớm hoàn thành xây dựng chính quyền điện tử và chuyển mạnh sang xây dựng chính quyền số. Tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ hành chính công của những đối tượng khó khăn, đặc thù. Thúc đẩy toàn diện việc xử lý hồ sơ, công việc trên môi trường mạng, hướng tới mô hình các cơ quan nhà nước “không giấy tờ”.

Chú trọng cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, xúc tiến đầu tư, thực hiện hiệu quả cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh của tỉnh thuận lợi, lành mạnh; thúc đẩy đổi mới sáng tạo; chú trọng phát triển doanh nghiệp và hợp tác xã tại địa phương; tăng cường chuyển giao ứng dụng khoa học và công nghệ vào quản trị và sản xuất; huy động, quản lý và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả.

Bốn là, triển khai thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động đi vào thực chất, bằng các việc làm, mô hình cụ thể, mang lại hiệu quả thực tế để phổ biến sâu rộng trong xã hội nhằm đẩy lùi hiện tượng “trông chờ”, “ỷ lại”, “trì trệ” của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Thực hiện mở rộng dân chủ gắn với kỷ cương, pháp luật, lấy quyền làm chủ và lợi ích của nhân dân, sự phát triển toàn diện và hạnh phúc của con người Quảng Trị làm đạo lý đổi mới sáng tạo. Nhân dân vừa là mục tiêu, động lực vừa là chủ thể và là người thụ hưởng thành quả của đổi mới sáng tạo. Từ đó, thắp lên ngọn lửa khát vọng, niềm tin và hành động xây dựng Quảng Trị phát triển nhanh và bền vững, không cam chịu khó khăn và lạc hậu trong mỗi cán bộ, đảng viên, từng người dân và trong toàn bộ hệ thống chính trị.

 

TGQT

More