Chi tiết - Huyện Vĩnh Linh - Cổng thông tin

Chi tiết - Huyện Vĩnh Linh

Chuyên đề năm 2025 (Phần 3): Quan điểm của Đảng ta về đối mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá sáng tạo vì lợi ích chung

Đường lối đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá sáng tạo vì lợi ích chung của đất nước là kết quả quá trình tìm tòi, thử nghiệm, bám sát thực tiễn, vừa làm vừa tổng kết, phấn đấu gian khổ của Đảng và Nhân dân ta. Đường lối đó được hình thành dựa trên những thử nghiệm và quyết sách quan trọng trong đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc và tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Tổng Bí thư Tô Lâm cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước; nguyên lãnh đạo Đảng và Nhà nước cùng các đại biểu thăm quan các gian hàng công nghệ tại Hội nghị toàn quốc về triển khai Nghị quyết 57-NQ/TW. Ảnh: Chinhphu.vn

Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, với ý chí tư lực tự cường, phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc và tinh thần đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, Đảng ta đã sáng suốt lãnh đạo Nhân dân vượt qua muôn vàng khó khăn, thách thức hiểm nghèo làm nên những chiến thắng vẻ vang đi vào lịch sử của dân tộc và nhân loại như: Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975…

Tinh thần ấy tiếp tục được phát huy mạnh mẽ trong thời kỳ cả nước bước vào xây dựng đất nước, tiến lên xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Hội nghị Trung ương sáu khóa IV với những quyết sách đổi mới, đột phá làm cho sản xuất “bung ra”: Chỉ thị số 100- CT/TW, ngày 13/01/1981 của Ban Bí thư khóa IV về cải tiến công tác khoán, mở rộng “Khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp; các Quyết định 25/CP và 26/CP của Thủ tướng Chính phủ về nhiều nguồn cân đối và ba phần kế hoạch. Đại hội V của Đảng xác định lại thứ tự ưu tiên trong phát triển kinh tế, khẳng định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; Nghị quyết Hội nghị Trung ương tám khóa V (tháng 6/1985) về giá - lương - tiền với chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; Kết luận của Bộ Chính trị khóa V (tháng 8/1986) về một số vấn đề lớn thuộc phát triển kinh tế, như xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phấn, sử dụng đúng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp…

Những thử nghiệm ban đầu nêu trên là tiền đề quan trọng hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, bao gồm đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức cán bộ, đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác. Đại hội đặc biệt nhấn mạnh phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; phải nắm vững quy luật khách quan, lấy dân làm gốc; phải “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Đại hội khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cần tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, tiến hành đổi mới chính sách kinh tế gắn với đổi mới chính sách xã hội; chủ trương kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.

Đại hội đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tạo ra bước đột phá lớn, toàn diện, đem lại luồng sinh khí mới trong xã hội, làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên. Thành công có tính đột phá và xuyên suốt thời kỳ đổi mới chính là đổi mới tư duy. Tư duy cũ thì hành động cũ. Tư duy xơ cứng thì hành động xơ cứng. Tư duy sai lầm thì hành động sai lầm. Đổi mới tư duy không phụ thuộc vào bề dày lịch sử truyền thống, vào người trẻ hay già, nó phụ thuộc rất lớn vào trí tuệ, bản lĩnh và trách nhiệm công bộc trước đất nước và dân tộc.

Đại hội VI nhấn mạnh: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếp thu những thành tựu lý luận, những kinh nghiệm mới phong phú của các đảng anh em, những kiến 17 thức khoa học của thời đại. Phải khắc phục những quan niệm sai lầm, lỗi thời. Đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại, chính là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy”.

Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) đã tổng kết 5 năm đổi mới (1986-1990), khẳng định đường lối đổi mới là đúng đắn và bước đi phù hợp với thực tiễn. Thành công lớn của Đại hội VII là đã đề ra: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (1990- 2000). Đại hội khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Từ sau Đại hội VII, tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng và phức tạp. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, tạo nên cơn chấn động chính trị trên thế giới, tác động sâu sắc đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và Nhân dân ta, nhiều người lo lắng, một số người hoài nghi, dao động về tiền đồ của chủ nghĩa xã hội. Trước tình hình đó, Đảng ta, với bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới, đã lãnh đạo Nhân dân ta vượt qua thử thách hiểm nghèo, vững vàng tiến lên trên con đường đổi mới.

Một sự kiện quan trọng tác động tích cực đến tư tưởng của Đảng và xã hội là Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01/1994) nêu ra những định hướng lớn và mới: Đánh giá những thành tựu đã đạt được trong những năm đổi mới vừa qua đã tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển sang một thời kỳ phát triển mới, chuẩn bị đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hội nghị đã vạch rõ bốn nguy cơ: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế với các nước trong khu vực và quốc tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về nạn tham nhũng, tệ quan liêu; nguy cơ ''diễn biến hòa bình''. Đồng thời với việc vạch rõ bốn nguy cơ, Hội nghị Đảng cũng đã nêu rõ cơ hội và những thuận lợi cơ bản: trong Đảng và trong xã hội đoàn kết, thống nhất tư tưởng và hành động; nước ta có thế và lực mới, khoa học và kỹ thuật phát triển, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế đem lại nguồn lực quan trọng cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Đại hội VIII của Đảng (tháng 6/1996) đánh dấu một bước phát triển mới của công cuộc đổi mới. Đại hội khẳng định: Sau hơn 10 năm đổi mới, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ của chặng đường đầu thời kỳ quá độ, cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phấn đấu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đại hội đã chỉ ra những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm còn lại của thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Đại hội đã nêu ra một số luận điểm quan trọng tiếp tục 18 hoàn thiện đường lối đổi mới: sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng; kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.

Đại hội IX của Đảng khẳng định, những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII nêu lên, vẫn còn nguyên giá trị, mà bài học hàng đầu vẫn là: “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) đã khẳng định: Nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, rút ra 5 bài học lớn của công cuộc đổi mới. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. Đại hội khẳng định nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Sau Đại hội, các nghị quyết Trung ương khóa X tập trung quá trình phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới của Đảng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng Đảng…

Đại hội XI của Đảng (tháng 01/2011) đánh dấu bước tiến trong đổi mới tư duy phát triển, phương thức phát triển, chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững, gắn đổi mới mô hình tăng trưởng với cơ cấu lại nền kinh tế. Thực hiện ba đột phá chiến lược: (1) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; (2) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; (3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ. Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với bối cảnh phức tạp mới của tình hình thế giới và trong nước với nhiều thời cơ và thách thức đan xen; đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”…

Đại hội XII của Đảng (tháng 01/2016), qua 30 năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của 19 toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Thành tựu và những kinh nghiệm, bài học đổi mới đúc kết từ thực tiễn tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tiếp theo. Đảng khẳng định “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.

Đại hội XIII của Đảng (tháng 01/2021), qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới; đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Lần đầu tiên trong chủ đề của Đại hội và trong các văn kiện chính trị đề cập đến “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Đây là một điểm rất mới và là một dấu ấn rất quan trọng. Khát vọng thịnh vượng đã được khơi dậy, truyền cảm hứng và như một lời hiệu triệu với non sông, đất nước, với gần một trăm triệu người dân Việt Nam mà ở đó, mục tiêu rõ nhất là làm cho người dân được hạnh phúc dưới ánh sáng tư tưởng, đạo đức, phong cách và khát vọng Hồ Chí Minh.

Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo công cuộc đổi mới hiện nay, trong đó nhấn mạnh: Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết.

Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW, ngày 22/9/2021 về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung. Kết luận số 14-KL/TW xác định: “Cần đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ… quyết tâm đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách, luôn nỗ 20 lực hành động vì lợi ích chung”. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 73/2023/NĐCP quy định rõ đối tượng, nguyên tắc, điều kiện, cách thức và quy trình, thủ tục thực hiện khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Ngay khi bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đất nước lại đương đầu với những khó khăn, thách thức mới, đó là đại dịch Covid-19, tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, bất lợi cho sự phát triển, cùng với sự chống phá quyết liệt và ngày càng tinh vi của các thế lực thù địch…

Đứng trước tình hình đó, một lần nữa Đảng ta đã thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, chủ động, sáng tạo lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vượt qua đại dịch Covid-19, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng - an ninh, khắc phục mọi khó khăn từng bước đưa tình hình kinh tế - xã hội từng bước phục hồi và phát triển năm sau cao hơn năm trước, được thế giới đánh giá “Việt Nam là một điểm sáng trong bức tranh màu xám của kinh tế toàn cầu”; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được tăng cường và có những chuyển biến tích cực, ngày càng trong sạch, vững mạnh; đặc biệt công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đạt nhiều kết quả quan trọng; kiềm chế, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, củng cố niềm tin của Nhân dân; công tác đối ngoại, các hoạt động ngoại giao cấp cao của Đảng và Nhà nước được tăng cường, đẩy mạnh, tạo ra thế và lực mới phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng nâng cao.

Nhìn lại suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt là từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới, có rất nhiều cán bộ, đảng viên rất tâm huyết, vì nước, vì dân, có tinh thần tiên phong, dám nghĩ, dám làm, có bản lĩnh chính trị, nhận thức và hành vi đúng, luôn kiên định đổi mới và sáng tạo nhằm đạt được mục tiêu vì lợi ích chung. Những đồng chí ghi dấu ấn đậm trong công cuộc đổi mới đó là: Tổng Bí thư Trường Chinh với đổi mới tư duy kinh tế, khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước; Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh chủ trương động viên, khuyến khích mọi người lao động, mọi năng lực sản xuất, mọi thành phần kinh tế sản xuất bung ra, cải tiến lưu thông, phân phối để thúc đẩy sản xuất phát triển, với “những việc cần làm ngay”; Thủ tướng Võ Văn Kiệt, trong kháng chiến kiên cường bám dân, bám đất; trong hòa bình, xây dựng đất nước đã mạnh dạn vượt qua tư duy cũ kỹ, lạc hậu, có nhiều ý tưởng, đề xuất đã được đưa vào văn kiện Đại hội, góp phần hình thành đường lối đổi mới toàn diện của Đảng; Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc Kim Ngọc - người đề ra nhiều chủ trương, chính sách đổi mới, sáng tạo, “phá rào” trong đổi mới nông nghiệp; Bí thư Tỉnh ủy Long An Nguyễn Văn Chính có quyết định đổi mới tư duy, thực hiện “cơ chế một giá theo thị trường”; Chủ tịch UBND thành 21 phố Hồ Chí Minh Mai Chí Thọ và nhiều lão thành cách mạng đã mạnh dạn cho phép nhà máy, xí nghiệp thử nghiệm “Kế hoạch 3 phần” của bà Nguyễn Thị Ráo phá rào thu mua gạo, bán gạo một giá đầu tiên trong cả nước…

Những tấm gương tiêu biểu ấy sẽ là động lực để cán bộ, đảng viên và Nhân dân hôm nay soi chiếu và tiếp tục phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung của quê hương, đất nước. Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng sẽ đánh dấu sự mở đầu Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, trên nền tảng những thành tựu vĩ đại của 40 năm Đổi mới, động lực hàng đầu để Việt Nam vững vàng bước vào Kỷ nguyên mới là thúc đẩy những đổi mới về thể chế, trọng tâm là đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị (gồm 3 khối Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội), đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy hướng đến Chính phủ hiệu quả; khơi dậy sự hứng khởi và niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp; củng cố và phát huy sự đoàn kết nhất trí, ý Đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, thịnh vượng, chung sức đồng lòng, phát huy mạnh mẽ tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh và ứng dụng thành tựu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. (Còn tiếp)

Nguồn Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Trị

More