Chi tiết - Huyện Vĩnh Linh

Gánh hát Trùm Bá

(QT) - Người dân Tùng Luật bao đời vẫn tự hào bởi ngôi làng tọa lạc trên thế đất “Phụng hàm thư”, nghĩa là con chim Phụng Hoàng ngậm sách trong miệng: thế đất sinh anh hào, tài tử, giai nhân. Từ trước đến nay Tùng Luật vốn là cái nôi văn nghệ dân gian mà đàn hát dân ca, hát sắc bùa, hò bả trạo từng nổi tiếng trong vùng. Vào những năm cuối của thế kỷ XIX, Tùng Luật du nhập thêm nghề hát bội, sản sinh ra nhiều thế hệ nghệ sĩ tài danh từ khi có “gánh hát trùm Bá”.

(QT) - Người dân Tùng Luật bao đời vẫn tự hào bởi ngôi làng tọa lạc trên thế đất “Phụng hàm thư”, nghĩa là con chim Phụng Hoàng ngậm sách trong miệng: thế đất sinh anh hào, tài tử, giai nhân. Từ trước đến nay Tùng Luật vốn là cái nôi văn nghệ dân gian mà đàn hát dân ca, hát sắc bùa, hò bả trạo từng nổi tiếng trong vùng. Vào những năm cuối của thế kỷ XIX, Tùng Luật du nhập thêm nghề hát bội, sản sinh ra nhiều thế hệ nghệ sĩ tài danh từ khi có “gánh hát trùm Bá”.

 

 

Minh họa: Ngọc Duy

 

Theo tác giả Trần Biên thì gánh hát và đội chèo Cạn làng Tùng ra đời trong khoảng những năm cuối thế kỷ XIX, do cụ Nguyễn Hữu Bá (sinh năm 1840) hành nghề bốc thuốc chữa bệnh là người hay ra vào kinh đô Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, có lúc vào tận lục tỉnh Nam Kỳ sáng lập ra. Trong các cuộc chu du ấy, ông Bá được xem tuồng của các gánh hát từ Quảng Nam trở vào. Từ xem đến say, từ say đến mê, từ mê đến lần mò học hỏi, một vài năm sau ông nắm bắt được bí quyết của nghệ thuật tuồng. Trở về quê tiếp tục làm nghề thuốc bắc nhưng ông Bá vẫn dành thời gian truyền nghề hát cho con em trong gia đình, họ tộc và làng mạc.

 

Những nghệ nhân đầu tiên của gánh hát trùm Bá có các ông Nguyễn Như Tính (đánh trống, thổi kèn), Nguyễn Như Giản (sử dụng thành thạo năm loại nhạc cụ cổ truyền) và các bà Nguyễn Thị Hòa, Nguyễn Thị Hạnh (ông Giản, bà Hạnh, bà Hòa là con đẻ của ông Bá). Bà Hạnh mất sớm, bà Hòa về sau lấy chồng ở Quảng Ngãi có con gái đầu lòng là NSND Lệ Thi. Ngoài con em trong nhà, ông Bá còn chọn thêm những người có năng khiếu đờn ca trong làng như các ông Trần Duyến (sau 1954 là nhạc công chương trình ca Huế Đài tiếng nói Việt Nam), Lê Não, Võ Cháu, Ba Mè (bố của NSƯT Châu Loan sau này), Nguyễn Khê, Phùng Đấu, Bát Đẩu, Trần Nóng, Lê Nãi. Gánh hát đầu tiên ấy có 14 diễn viên được lập ra vào lúc ông Bá bốn mươi tuổi (1880). Gia tài của gánh hát ban đầu lèo tèo dăm bảy bộ quần áo, hia, mão và nhạc cụ đựng vừa vặn trong đôi bồ con và mấy vở diễn như Phạm Công Cúc Hoa, Lục Vân Tiên, Tạ Ngọc Lân lăn lửa, Giả dại qua đèo…

 

Mỗi độ xuân về, nếu như hai phủ Vĩnh Linh, Gio Linh không có làng nào tới rước gánh hát ông Bá về diễn thì họ lại dắt díu quẩy bồ cuốc bộ ra Lệ Thủy, Quảng Bình hoặc xuôi đò dọc vào tận Thừa Thiên - Huế diễn ở các làng, các rạp hát kiếm tiền. Cho đến khi tiếng chim tu hú lảnh lót gọi bầy, ngoài đồng lúa chiêm uốn câu ngả màu vàng nhạt, các nghệ sĩ khăn gói trở về bến Tân Trại; trở về với đồng ruộng, lưới chài, nương vườn để rồi mùa xuân năm sau lại từ đây lên đường lưu diễn chuyến khác… Từ những chuyến lưu diễn mà nghệ sĩ gánh hát được mở rộng tầm mắt, học hỏi thêm các làn điệu dân ca, nhất là các điệu lý và hò. Lớp nghệ nhân này không những tự học hỏi, trau dồi nghề nghiệp mà còn truyền dạy cho con cháu của mình.

 

Cũng như đoàn Tuồng Chợ Cạn, tiếng tăm của gánh hát trùm Bá lan tỏa trong vùng nên được vua quan triều đình nhà Nguyễn mời vào Kinh biểu diễn. Ông Đổng là nhạc công của gánh hát có tài nghệ thổi sáo được vua ban thưởng hàm “bát phẩm”. Chỉ tính riêng gia đình cụ trùm Bá đã có một người em, ba người con là nghệ nhân ưu tú, năm cháu nội ngoại là nghệ sĩ, bốn chắt nội ngoại là những ca sĩ và nhạc công, tổng cộng có mười bốn người theo đuổi sự nghiệp do cụ sáng lập. Chưa kể gia đình các cụ Ba Mè, Võ Cháu, Trần Duyến, Nguyễn Nghê... phần lớn con cháu của họ đều được dìu dắt để trở thành những nghệ sĩ tài năng.

 

Riêng gánh hát trùm Bá, tuy không còn phiên chế để hoạt động chính thức nhưng trong vòng 30 năm (1954 - 1984), từ “cái nôi” này đã cung cấp đào tạo cho các đoàn Nghệ thuật Trung ương và các tỉnh thành 42 diễn viên ca Huế, dân ca và nhạc công. Trong đó có nhiều nghệ sĩ đạt tới đỉnh cao nghệ thuật được Nhà nước phong tặng danh hiệu như cố NSƯT Châu Loan, cố NSND Lệ Thi, NSND Kim Quý, NSƯT Sĩ Cừ, NSƯT Kim Phú, cố NNƯT Ái Chủng và nhiều nghệ sĩ tài danh khác như Trần Duyến, Châu Dinh, Châu Phụng, Bích Nồng, Thu Sen... Không ít người trong số họ từng được vinh hạnh vào Phủ Chủ tịch hát những làn điệu dân ca miền Trung cho Bác Hồ nghe, được Bác khen ngợi... Đó cũng đã là vinh quang của một thời vàng son quá vãng.

 

Đã từng có một gánh hát trùm Bá vừa đạt tới đỉnh cao thì chiến tranh ập đến. Và cũng không trách cứ gì chiến tranh, vì ngay trong thời bình nhiều bộ môn nghệ thuật trình diễn dân gian nửa sân khấu như hát sắc bùa, chèo Cạn (hát bá trạo), hò Giã gạo… cũng đã mai một, bóng hình của nó chỉ còn lưu lại ít ỏi ở bài hò đưa linh. Mỗi độ xuân về, người già thường ngồi nhớ đến những ngày vàng son, nổi đình nổi đám của gánh hát trùm Bá. Rất may, tỉnh đã thành lập Đoàn Nghệ thuật truyền thống Quảng Trị (trên nền đoàn Nghệ thuật tổng hợp). Mong sao đoàn sớm có kế hoạch phục hồi và nâng cao những truyền thống tốt đẹp của Gánh hát trùm Bá từng vang bóng một thời.

 

Y Thi

 

 

Nguồn: http://www.baoquangtri.vn/V%C4%83n-h%C3%B3a-Th%E1%BB%83-thao/modid/421/ItemID/147280

Bài viết liên quan