Chi tiết - Huyện Vĩnh Linh

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm những nguy cơ đe dọa đến sự tồn vong của Đảng và chế độ, trong đó có tham nhũng, tiêu cực (TNTC). Người tiên liệu và sớm phát hiện tệ nạn đó nảy sinh trong bộ máy lãnh đạo, quản lý do chính Người sáng lập. Không chỉ kịch liệt lên án mà Người còn dày công xây dựng một hệ thống quan điểm từ khái niệm, nguồn gốc, bản chất, các hình thức biểu hiện, hậu quả nguy hại đến các giải pháp cơ bản nhằm chỉ dẫn để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đấu tranh phòng, chống, đẩy lùi TNTC.

1. Khái niệm và hình thức tham nhũng, tiêu cực

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Người chưa dùng cụm từ “tham nhũng”, “tiêu cực”, mà sử dụng các thuật ngữ: “tham ô”, “nhũng lạm” (lạm dụng quyền lực nhũng nhiễu dân để đục khoét của dân), “lãng phí”, “quan liêu”, “chủ nghĩa cá nhân”. Những khái niệm, thuật ngữ đó bản chất của nó thực chất là “tham nhũng” như Đại hội VI (1986) lần đầu tiên sử dụng và cụm từ “Tham nhũng, tiêu cực” được đưa vào các văn bản hiện nay.

1.1. Tham ô và hình thức tham ô 

Theo quan điểm Hồ Chí Minh: Tham ô là hành vi “gian lận”, “ăn cắp”, “trộm cướp”, chiếm đoạt “của công” làm “của tư”.

+ Đối với cán bộ: Tham ô là lợi dụng quyền hành hoặc chức trách để “Ăn cắp của công làm của tư. Đục khoét của nhân dân. Ăn bớt của bộ đội. Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình”.

Đặc trưng, bản chất của tham ô là lợi dụng chức quyền - thực chất là tha hóa quyền lực - biến “của công” thành “của tư”. “Của công” là tài sản của Nhân dân, do Nhân dân đóng góp nhằm phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. “Của công thành của tư” nghĩa là tài sản công không phục vụ vì mục đích chung mà chỉ dành làm của riêng cho cá nhân, gây quỹ riêng cho tập thể - một cơ quan, đơn vị hay một địa phương.

Hồ Chí Minh còn chỉ ra nhiều hình thức tham ô cụ thể: Trong lĩnh vực nông nghiệp, tham ô của các ban quản trị hợp tác xã có thể là “Khi bắt đầu cày bừa cũng làm mấy con lợn để “liên hoan”. Hễ có cơ hội là bày ra chè chén. Hay khi gặt về tuốt lúa dối rồi chia “rơm” cho xã viên và bà con đem về tuốt lại” ; trong các đơn vị kinh doanh là “Mua rẻ, bán đắt, khai gian, làm dối, thông đồng với những chủ thầu xấu, tham ô hàng triệu đồng của Chính phủ và của Nhân dân ta” ; với cán bộ, đảng viên là “Không biết tiếc, biết tôn trọng của công, không biết tiếc của cải do mồ hôi nước mắt đồng bào làm ra. Do đó mà đẻ ra xa xỉ. Lương bổng Chính phủ cấp cho chúng ta có hạn mà ta xa xỉ thì lấy tiền đâu? Đã có cái áo rồi còn muốn hai ba cái như thế. Lại muốn mua thứ này thứ khác mà thiếu tiền sẽ sinh ra tham ô”.

Ngoài hình thức tham ô trực tiếp như nêu trên, Người còn đề cập đến hình thức tham ô khác mà nhiều cán bộ, đảng viên mắc phải nhưng không để ý, không quan tâm hoặc coi là chuyện bình thường. Ví như: “Một cán bộ, Chính phủ, Nhân dân trả lương hàng tháng, nhưng lại kém trách nhiệm, đứng núi này trông núi nọ, làm việc chậm chạp, ăn cắp giờ của Chính phủ, của nhân dân” . Người cho rằng đó cũng là hành vi tham ô - tham ô gián tiếp. Hình thức tham ô này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng, hiệu quả công tác, tác phong, uy tín cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.

+ Với Nhân dân: “Tham ô là ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế”.

Không chỉ có chức, có quyền mà kể cả những người không có chức quyền vẫn có thể là chủ thể tham ô. Người dân “ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế” là tham ô. Một ai đó, như: Người buôn bán, mua 1 bán 10 hoặc mua gian bán lậu chợ đen chợ đỏ, tích trữ đầu cơ; người có tiền, cho vay cắt cổ, bóp hầu, bóp họng đồng bào; người cày ruộng, không ra công đào mương, mà lấy cắp nước ruộng láng giềng; người làm nghề (bất kể nghề gì) nhân lúc khó khăn mà bắt chẹt đồng bào; người cờ bạc, chỉ mong xoay của người làm của mình... Hồ Chí Minh liệt những hành vi đó thuộc khái niệm tham ô và những người dân bình thường nếu làm những việc như thế cũng là chủ thể tham ô. 

Để diễn tả đầy đủ, sâu sắc hơn khái niệm tham ô, Người sử dụng thuật ngữ và thông qua thuật ngữ cổ hơn là “liêm” và “bất liêm”.

+ Liêm: Là trong sạch, không tham lam, là liêm khiết, không tư túi, khuất tất, bất minh, luôn tôn trọng, giữ gìn của công, của Nhà nước, của Nhân dân. “Liêm” là một phẩm chất thể hiện lối sống trong sạch, không hám danh, không bận tâm toan tính nhỏ nhen, ích kỷ.

+ Bất liêm: Là tham lam “tham địa vị, tham tiền tài, tham danh tiếng, tham ăn ngon, mặc đẹp”, là “đục khoét của dân”, “ăn của đút”, “trộm của công làm của tư” và là “lộng quyền”, “dìm người giỏi”, háo danh, “ngại khó khăn, gian khổ”. Đã “tham” là “bất liêm”, mà “bất liêm” là không có đạo đức.

Người lý giải: Tham tiền dẫn đến đục khoét của dân, trộm cắp của công; tham danh vọng, địa vị dẫn đến dìm người giỏi, mua bán danh vị, nịnh trên, nẹt dưới; tham nhàn dẫn đến ngại khó, ngại khổ, đùn đẩy công việc, khi có công thì tranh giành, khi có tội thì đổ vấy; tham sống dẫn đến hèn nhát, thấy việc nghĩa không dám làm, gặp giặc không dám đánh; tham quyền, cậy thế ắt sẽ “đục khoét” của dân, tìm mọi cách ăn “của đút”...

“Bất liêm” sẽ gây tội ác với Đảng, với nước, với dân, dù công khai hay bí mật, trực tiếp hay gián tiếp; “bất liêm” thực chất là “tham ô”, “trộm cắp”, “vô liêm sỉ”, không còn day dứt, xấu hổ khi làm những việc mờ ám, xấu xa, đê hèn, tội lỗi.

1.2. Tiêu cực và hình thức tiêu cực.

Tiêu cực là khái niệm rộng dùng để chỉ mọi “thói hư, tật xấu” diễn ra trong xã hội nói chung và trong những “ông quan cách mạng” nói riêng.

Dù chưa dùng cụm từ “tiêu cực”, nhưng nội hàm của thuật ngữ này được Hồ Chí Minh diễn tả cụ thể, đầy đủ, sâu sắc trong tư tưởng của mình. Ngoài “tham ô”, “lãng phí”, “quan liêu”, từ thực tiễn hoạt động cách mạng, Người phát hiện, đúc rút, tổng kết, khái quát và chỉ ra một loạt “căn bệnh” xuất hiện ở một bộ phận CBĐVCCVC, như: “chủ quan”, “làm việc trái phép”, “cậy thế”, “hủ hóa”, “cơ hội”, “hẹp hòi”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”, “hiếu danh”, “thiếu kỷ luật”, “hách dịch”, “quân phiệt”, “hữu danh vô thực”, “kéo bè kéo cánh”, “cận thị”, “lười biếng”, “tị nạnh”, “xu nịnh a dua”... 

Những “căn bệnh” được Người lần lượt đưa ra ánh sáng, chỉ mặt, đặt tên, đó là hình thức biểu hiện cụ thể của mọi “thói hư, tật xấu” xảy ra trong bộ máy hệ thống chính trị các cấp. Thực chất những “căn bệnh” đó thuộc nội hàm thuật ngữ “tiêu cực” mà ngày nay chúng ta đang sử dụng.

2. Nguồn gốc tham nhũng, tiêu cực

Tham nhũng, tiêu cực nảy sinh từ rất nhiều nguyên nhân, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Người đề cập trên những khía cạnh cơ bản sau: 

- Một là, tham nhũng, tiêu cực là sản phẩm của xã hội cũ.

Chế độ xã hội cũ sản sinh ra nhiều thói hư tật xấu, trong đó có TNTC. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Tham ô, lãng phí, quan liêu là những xấu xa của xã hội cũ. Nó do lòng tự tư, tự lợi, ích kỷ hại dân mà ra. Nó do chế độ người bóc lột người mà ra” .

- Hai là, thiếu đạo đức cách mạng, sa vào chủ nghĩa cá nhân. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận biết hiện tượng sa sút đạo đức, tha hóa quyền lực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người cảnh báo: “Những người trong công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân” . Người dự báo: Khi được Đảng, Nhà nước trao quyền nhưng thiếu đạo đức “Đều dễ tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của Chính phủ, hoặc khoét đục Nhân dân”.

Sa đọa đạo đức, tha hóa quyền lực ắt dẫn đến: “Cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp dĩ công vi tư”.

Chủ nghĩa cá nhân cũng là nguồn gốc làm “Nảy sinh ra các bệnh nguy hiểm như lười biếng, ngại gian khổ, khó khăn, tham lam, trục lợi, thích địa vị, quyền hành, tham ô, hủ hóa, xa hoa”  và cũng vì chủ nghĩa cá nhân làm cho cán bộ, đảng viên “phạm nhiều sai lầm”.

- Ba là, quan liêu là nguồn gốc trực tiếp của tham nhũng, tiêu cực.

Cán bộ, đảng viên mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh, xa dân, khinh dân, sợ dân, không tin cậy dân, không hiểu biết dân, không yêu thương dân, thậm chí còn lừa phỉnh, dọa nạt dân; khi mỗi cá nhân và cơ quan lãnh đạo, quản lý từ cấp trên đến cấp dưới không sâu sát công việc thực tế, không rõ lai lịch, tư tưởng và công tác của cán bộ mình, thiếu dân chủ, sợ phê bình và tự phê bình, làm trái với lợi ích quần chúng, trái với phương châm, chính sách của Đảng, Chính phủ, không kiểm tra công việc đến nơi đến chốn, “Có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, kỷ luật mà không nắm vững” , đó là nguyên căn sâu xa, trực tiếp và là điều kiện sinh tệ tham ô và tiêu cực. Người tổng kết: “Ở đâu có bệnh quan liêu thì ở đó chắc chắn có tham ô, lãng phí; nơi nào bệnh quan liêu càng nặng thì nơi đó càng nhiều tham ô, lãng phí”.

Bệnh quan liêu là “chỗ gieo hạt vun trồng”, “ấp ủ, dung túng, che chở” cho nạn tham ô nảy nở và tạo điều kiện thuận lợi nhất để những cán bộ kém phẩm chất đạo đức “tha hồ mà tham ô”.

- Bốn là, quá trình tổ chức, quản lý của bộ máy nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều khuyết điểm, yếu kém và sự hiểu biết của một bộ phận nhân dân còn hạn chế.

Với danh nghĩa “một người đồng chí già”, ngày 17/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi các đồng chí tỉnh nhà. Người day dứt, trăn trở với “lầm lỗi” của cán bộ, đảng viên “Có người hủ hóa, lên mặt làm quan cách mạng hoặc là độc hành độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư”, “Khi phụ trách ở một vùng nào thì như một ông “vua con” ở đấy tha hồ hách dịch, hoạnh họe”. Chính số cán bộ đó là những tấm gương xấu “dùng của dân, của công để tiêu xài riêng”, “Ăn muốn cho ngon, mặc muốn cho đẹp, càng ngày càng xa xỉ, càng ngày càng lãng mạn, thử hỏi tiền bạc ấy ở đâu mà ra? Thậm chí lấy của công làm của tư, quên cả thanh liêm, đạo đức. Ông ủy viên đi xe hơi, rồi bà ủy viên, cho đến các cô các cậu ủy viên, cũng dùng xe hơi của công. Thử hỏi những hao phí đó, ai phải chịu?”. 

Một số cán bộ, đảng viên, công chức “Không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề...” ; họ mang nặng phong cách “Ngồi một nơi chỉ tay năm ngón không chịu xuống địa phương kiểm tra công tác” . Thực trạng đó, “Có thể nói rằng: Chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra” . Mắc bệnh quan liêu, là “mảnh đất tốt cho tham ô, lãng phí sinh sôi và phát triển”.

Nhà nước các cấp có lúc, có nơi “Kỷ luật không đủ nghiêm. Để cho bọn giả mạo tiếng Chính phủ hoặc tên Việt Minh ức hiếp nhân dân, xoáy tiền dân, lấy đồ đạc của dân, làm cho dân oán” . Khi cán bộ phạm lỗi đáng bị trừng phạt, nhưng chỉ “phê bình, cảnh cáo qua loa” do “cảm tình nể nang”; hoặc “không bị trừng phạt xứng đáng”; thậm chí “còn có nơi che đậy cho nhau, tha thứ lẫn nhau, lừa dối cấp trên, giấu giếm Đoàn thể” “Thi hành kỷ luật như vậy làm cho các đồng chí không chỉ không biết sửa lỗi mình mà còn khinh thường kỷ luật”.

Trình độ nhận thức và sự hiểu biết hạn chế của một bộ phận Nhân dân cũng là một nguyên nhân làm nảy sinh TNTC trong bộ máy nhà nước. Người nói: “Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, không chịu “đút lót” thì “quan dù có không liêm cũng hóa ra liêm”. 

3. Hậu họa của tham nhũng, tiêu cực

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:“Tham ô, lãng phí, quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ” ; “là những tội lỗi đối với Tổ quốc, với đồng bào”. Tham ô, lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng”, cho dù “nó không mang gươm, mang súng” nhưng nó lại vô cùng nguy hại bởi “Nó nằm trong tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta... làm hỏng tinh thần trong sạch, ý chí khắc khổ của bộ đội ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính”.

Người coi tham nhũng là đồng minh của thực dân, phong kiến, là một tội ác, để lại hậu họa khôn lường “Chiến sĩ thì hy sinh xương máu, đồng bào thì hy sinh mồ hôi, nước mắt để đóng góp. Mà những kẻ tham ô, lãng phí, quan liêu thì phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ, của nhân dân. Tội lỗi ấy nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”  ngang với “tội phản quốc” làm ra. 

Tham nhũng, tiêu cực “là hành động xấu xa nhất của con người”, “là tội lỗi đê tiện trong xã hội”, “không gì tệ hơn nữa”, không những xâm hại đến lợi ích, đến tài sản Nhân dân “đổ mồ hôi, sôi nước mắt” mà còn gây thiệt hại to lớn về kinh tế, suy giảm nguồn lực phát triển đất nước. Tệ TNTC làm vẩn đục chế độ, rối loạn kỷ cương phép nước “Gây ra bao ác cảm, bao chia rẽ, làm cho cấp trên xa cấp dưới, Đoàn thể (Đảng) xa nhân dân”  làm tha hóa, hư hỏng, mất mát một bộ phận cán bộ, đảng viên; xói mòn nghiêm trọng lòng tự hào, niềm tin, kỳ vọng của Nhân dân với Đảng, với chế độ mới; ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng đến sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc; trực tiếp đe dọa đến sự sống còn của Đảng, sự tồn vong của dân tộc.

4. Tấm gương mẫu mực Hồ Chí Minh về đức Liêm

Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh không biết mệt mỏi để phòng ngừa và đẩy lùi nạn TNTC, mà Người còn là tấm gương tiêu biểu, mẫu mực nhất về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

Cuộc đời Người trong sáng như pha lê, không màng đến công danh, phú quý “Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Khi tự phê bình, dù khiêm tốn Người vẫn nói: Bác cũng có khuyết điểm, “Nhưng có một việc Bác rất tự hào là chưa bao giờ Bác tham ô, dù chỉ một đồng xu của dân, của Đảng”.

Trên đỉnh cao quyền lực, không bao giờ và chưa khi nào Người sử dụng quyền lực ấy cho cá nhân, gia đình mình. Trọn cuộc đời, Người sống bình dị như những người dân, không hề có sự cách biệt: Khi ở chiến khu sống trong những lán che bằng tre nứa, về Thủ đô không sống trong Phủ toàn quyền Đông Dương mà chỉ ở ngôi nhà sàn trên vài chục mét vuông; những bữa ăn hằng ngày đơn sơ, đạm bạc, vẫn cháo bẹ, rau măng, vẫn cơm độn ngô khoai như bao người dân Việt Nam khác; vẫn mặc quần áo đã sờn hoặc khâu vá lại; vẫn dùng quạt nan, đi dép cao su; hằng ngày vẫn tự bớt phần ăn để góp vào “Hũ gạo kháng chiến”, nhịn ăn để đem gạo cứu giúp dân nghèo...

Trong sâu thẳm lương tâm, Người đau đáu nghĩ về dân “Lúc chúng ta nâng bát cơm ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng” ; luôn hướng về Tổ quốc, đồng bào “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”  và luôn quan niệm: “Người ta ai cũng muốn ăn ngon mặc đẹp, nhưng phải đúng thời, đúng hoàn cảnh. Trong lúc nhân dân còn khó khăn, một người nào đó muốn hưởng ăn ngon, mặc đẹp thì không có đạo đức”.

Thật hiếm có và hiếm thấy lãnh tụ nào như Hồ Chí Minh “Vì nước chưa nên nghĩ đến nhà”, về cuối đời, trong Di chúc còn căn dặn: “Sau khi tôi qua đời, chớ nên tổ chức phúng điếu linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”. Đến khi nhắm mắt xuôi tay, khiến chúng ta bùi ngùi, xúc động: Người không có tài sản riêng, dù chỉ một chút ít và trên ngực áo không có, dù một tấm huân chương. 

5. Giải pháp phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

Từ việc chỉ rõ bản chất, nguyên nhân, sự nguy hại của TNTC, Hồ Chí Minh đưa ra các biện pháp như những “thang thuốc” chữa trị căn bệnh TNTC một cách toàn diện, đồng bộ và nhất quán.

Tháng 3/1952, trong bài “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu”, Người tuyên bố: “Phải loại trừ cho nhanh chừng nào tốt chừng ấy các tệ tham ô, lãng phí”. Phải chống nạn ăn cắp của công mà các cơ quan quen gọi trộm cắp “đường hoàng”, đồng thời cũng phải chống bọn “trộm cắp kín đáo”, dù dưới hình thức nào thì phải tìm mọi cách “Tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu”  để các tệ nạn đó “không còn sống được”.

Người coi cuộc đấu tranh tẩy sạch nạn tham ô như tiêu diệt “những con sâu mọt rút lá, cắn hoa, khoét quả”, “Muốn lúa tốt thì phải nhổ cỏ cho sạch, nếu không, thì dù cày bừa kỹ, bón phân nhiều, lúa vẫn xấu vì lúa bị cỏ át đi... Nếu không, thì nó sẽ làm hại đến công việc của ta”. Vì sự sinh tồn của Đảng, Nhà nước và chế độ, trả lời trước kỳ họp lần thứ hai, Quốc hội khóa I, tháng 10/1946, Người nói: Với những kẻ ăn hối lộ, chúng tôi “đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết” và trong phiên họp Bộ Chính trị năm 1962, Người đề nghị Đảng cần phải có Nghị quyết chống tham ô, lãng phí, quan liêu.

Phòng, chống TNTC là một cuộc chiến “nặng nề, khó khăn, phức tạp” hơn cả đánh giặc ngoại xâm”. Bởi đó, là cuộc đấu tranh giải quyết “việc của ta”, đánh “giặc trong lòng”, giằng co quyết liệt “Giữa cái tốt và cái xấu, cái cũ và cái mới, giữa đạo đức cách mạng là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và kẻ địch là tệ tham ô, lãng phí, quan liêu”.

Chống TNTC là nhiệm vụ quan trọng, cần tiến hành thường xuyên, kiên quyết và triệt để “Thực dân và phong kiến tuy bị tiêu diệt, nhưng cái nọc độc của nó (tham ô, lãng phí, quan liêu) vẫn còn, thì cách mạng vẫn chưa hoàn toàn thành công, vì nọc độc ấy ngấm ngầm ngăn trở, ngấm ngầm phá hoại sự nghiệp xây dựng của cách mạng".

5.1. Muốn chống tham nhũng, tiêu cực trước hết phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, tẩy sạch bệnh quan liêu

Như trên đã đề cập: Chủ nghĩa cá nhân là thứ vi trùng độc hại đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm, “là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư, tật xấu như tham ô, lãng phí...”. Chủ nghĩa cá nhân là “kẻ địch hung ác”, nó làm hư hỏng đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm tha hóa Đảng. Vì vậy, muốn phòng, chống tham ô, nhất thiết phải tuyên chiến với chủ nghĩa cá nhân “chúng ta phải tiêu diệt nó”!

Người luôn coi quan liêu là “kẻ thù” vì nó là “nguồn gốc của nạn tham ô, lãng phí”. Để chống bệnh quan liêu, Người dặn: Phải đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, có thật thà “tự phê bình và phê bình” mới “tẩy trừ những thói tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu”; thực hành tự phê và phê bình thường xuyên như “ăn cơm, uống nước, rửa mặt hằng ngày”.

Phải mở rộng dân chủ“Trong cơ quan, ngoài quần chúng, từ trên xuống, từ dưới lên. “Trên đe dưới búa” của phê bình thì nhất định tẩy được bệnh quan liêu” . Người đồng tình với quan điểm của Lênin: “Cần phải dùng nhiều hình thức và phương pháp kiểm tra từ dưới lên trên... để nhổ đi nhổ lại cho sạch hết những cỏ rác của bệnh quan liêu” . Người khuyên: “Toàn thể cán bộ ta, ai không mắc bệnh quan liêu phải giữ gìn, tránh nó. Ai đã mắc bệnh ấy, thì phải cố gắng sửa chữa cho khỏi đi, cho xứng đáng với người cán bộ cách mạng, để khỏi bị đào thải”.

5.2. Huy động và phát huy tối đa lực lượng toàn dân tham gia phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng” , “Phải thực hành dân chủ, phải làm cho quần chúng hiểu rõ, hăng hái tham gia thì mới chắc chắn thành công. Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng”.

Người khuyên Đảng, Nhà nước, các tổ chức quần chúng trước hết phải giáo dục, “Phát động tư tưởng của quần chúng làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp” và “Gây nên một phong trào quần chúng gớm ghét, bao vây lũ giặc ấy... gây nên một cuộc vận động trong công nông chống trộm cắp; làm cho lũ trộm cắp “đường hoàng” cũng như trộm cắp kín đáo - không còn sống được” . Chủ động, tích cực nâng cao trình độ dân trí, nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân, làm cho mỗi người dân biết hưởng “quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ” dám nói, dám làm, “biết quyền hạn của mình, biết kiểm soát cán bộ thực hiện chữ liêm”.

5.3. Coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. 

Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Do vậy, cuộc đấu tranh PCTNTC phải lựa chọn những người có đủ uy tín, kinh nghiệm, năng lực, trình độ bố trí đúng vào các cương vị lãnh đạo, quản lý các cấp của hệ thống chính trị. Người khuyên: Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người tài năng, những người thật sự “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, “ít lòng ham muốn vật chất”, luôn “làm kiểu mẫu: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.

Thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có lòng tự trọng, biết “giữ gìn chữ liêm”. Với những cán bộ, đảng viên tốt tiếp tục động viên, khuyến khích họ phát huy; những cán bộ, đảng viên sa vào TNTC phải tìm mọi cách, mọi biện pháp “giáo dục là chính”, “cứu vãn họ, giúp họ khôi phục đạo đức cách mạng”, “đưa họ vào con đường cách mạng”. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại nhiều bài học về nghệ thuật giáo dục chống TNTC vừa khéo léo, tế nhị, vừa nghiêm khắc và vô cùng hiệu quả. Trong một phiên họp Chính phủ mở rộng, Bác dùng tiền lương của mình mua tặng cho mỗi đại biểu một cây bút. Ai cũng vui, nhưng giật mình khi đọc dòng chữ khắc trên thân bút “Bút chống quan liêu, tham ô”. Bác không nói câu nào, cán bộ dự họp đọc xong câu đó cũng không ai nói với nhau câu nào. Nhưng “Im lặng của Bác như lời cảnh báo phải tỉnh táo, cẩn thận và biết dừng lại trước khi quá muộn. Còn sự im lặng của mỗi cán bộ hôm đó là sự dằn vặt bên trong, đang tự vấn lương tâm mình”.

Mùa Thu năm 1951, Người đến thăm lớp bồi dưỡng chính trị cho cán bộ Quân - Dân - Chính Đảng ở chiến khu Việt Bắc. Trước một bộ phận cán bộ sa vào tệ tham ô: “Bác hỏi thật các cô, các chú có bao giờ ăn bớt cơm của vợ con mình không?”. “Thưa Bác không ạ”. Thế thì tại sao của cải của Nhà nước, của nhân dân, tiêu chuẩn của chiến sĩ, công nhân, nhân viên, người lao động, hễ sinh ra, lơ là kiểm tra là có một số cán bộ vơ vào, đút túi” . Lời Người nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, cả lớp lặng đi, nhiều người không dám nhìn Bác, một bài học thấm thía, suốt đời không quên.

Người dặn: Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu làm “mực thước” cho quần chúng noi theo, làm theo “Nếu chính mình tham ô bảo người ta liêm khiết có được không? Không được. Mình trước hết phải siêng năng, trong sạch thì mới bảo người ta trong sạch, siêng năng được”. Những người trong công sở phải “lấy chữ liêm làm đầu”, thực hiện chữ “liêm” trước để làm “kiểu mẫu” cho Nhân dân; phải cảnh giác trước sự tha hóa quyền lực “Khi có ít nhiều quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu” , đề cao liêm sỉ, tự trọng và luôn nhận thức “Tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có tội với nước, với dân” ; song song với đó là thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện, “tự soi, tự sửa”, luôn “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. 

5.4. Tuân thủ “cách tổ chức” phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. 

Hồ Chí Minh chỉ dẫn cụ thể các bước tiến hành PCTNTC ở trong từng cơ quan, đơn vị, địa phương, doanh nghiệp. Theo Người, cuộc đấu tranh này cần tuân thủ qua 03 bước:

Bước 1, “đánh thông tư tưởng”. 

Phải giải thích cho mọi người hiểu: Tác hại của tham ô, lãng phí, quan liêu và vì sao phải chống những tệ nạn ấy. Phải sửa chữa tất cả những ý nghĩ sai lầm, những lo ngại không đúng như: Những người có công với cách mạng, tham ô chút đỉnh nên tha thứ; không phải cơ quan kinh tế thì không có gì mà tham ô; ai tham ô mặc ai, mình không tham ô thì thôi; kiểm thảo lẫn nhau làm gì, chỉ trích lỗi người khác sẽ mất đoàn kết, nói thật mất lòng, bị bầu bạn ghét, cấp trên trù; tự nhận sai lầm sợ mất thể diện, uy tín và bị phạt...

Bước 2, từng bộ phận trong cơ quan, đơn vị “nghiên cứu tài liệu” và “kiểm thảo”.

Phải nghiên cứu kỹ tất cả các tài liệu về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Tự giác kiểm điểm: Mình có tham ô không? Có ăn bớt của công cho đơn vị, cơ quan mình không? Có lãng phí của Nhà nước, của Nhân dân, quan liêu, phô trương hình thức, lười biếng, thiếu trách nhiệm không? Tự phê và phê bình phải thật thà, không giấu giếm, không nên “ít thít ra nhiều”, “nói việc nhỏ bỏ việc lớn”, “nói việc cũ quên việc mới”.

Cán bộ, đặc biệt là người đứng đầu các cấp phải gương mẫu tự phê và phê bình; thật thà báo cáo tình hình đơn vị cho toàn ngành và cấp trên biết; ai phê bình người khác đúng phải được khen thưởng; ai có lỗi thật thà nhận thì lỗi nhẹ được tha thứ, lỗi nặng sẽ được xử nhẹ; ai có lỗi mà không thật thà nói ra hoặc ngăn cản người phê bình sẽ bị kỷ luật.

Bước 3, đơn vị, cơ quan “khai hội kiểm thảo chung”. 

Cơ quan, đơn vị kiểm điểm nhằm giải quyết mọi vấn đề, giải thích mọi thắc mắc, sửa chữa những khuyết điểm; khen ngợi những người thành thật tự phê bình, khuyến khích những người còn ngập ngừng, e ngại trong đấu tranh; đặt ra chương trình phấn đấu; bầu ban lãnh đạo phong trào của cơ quan, đơn vị.

Kiểm điểm có trọng tâm, làm từng bước, có chiều sâu; làm từ cấp trên đến cấp dưới, từ bộ phận chính đến bộ phận phụ.

5.5. Thực hiện thưởng, phạt thật nghiêm minh. 

Trong cuộc đấu tranh này, Đảng, Nhà nước “Phải có sự chuẩn bị, có kế hoạch, có tổ chức, ắt phải có sự lãnh đạo và có kiên trung”. Người đòi hỏi: Ai có công phải được thưởng xứng đáng, ai có tội phải bị trừng phạt đúng mức; Nhà nước phải “có những pháp luật để trừng trị tệ tham ô, lãng phí” và “pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”.

Đối với mọi hành vi TNTC không được nể nang nhằm bảo vệ công lý, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, giáo dục răn đe, làm gương cho những người đang hoặc có ý định tham ô. Mỗi khi “Tìm ra, điều tra ra những vụ tham ô, Đảng sẽ thẳng tay kỷ luật và Chính phủ sẽ thẳng tay trừng trị”. Người thống nhất quan điểm của Lênin: “Không xử bắn lũ ăn của đút lót, mà xử một cách pha trò, mềm mỏng nhẹ nhàng như vậy đó là một điều xấu hổ cho những đảng viên cộng sản, cho những người cách mạng. Cần phải nêu những đồng chí đã ăn hối lộ ra để cho dư luận quở trách và cần phải đuổi họ ra khỏi Đảng”.

Ngày 26/01/1946, Người ký Quốc lệnh quy định những trường hợp thưởng, phạt: “Trong một nước, thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công” . Quốc lệnh quy định 10 trường hợp được thưởng và 10 trường hợp bị phạt, trong đó phạm tội “Trộm cắp của công sẽ bị xử tử”.

Năm 1950, vụ án Trần Dụ Châu - Đại tá, Cục trưởng Cục quân nhu Quân đội nhân dân tham ô tài sản, nhận hối lộ và sống xa hoa, sa đọa. Tòa án binh tối cao tuyên án tử hình. Trần Dụ Châu viết đơn xin Chủ tịch nước khoan hồng. 

Bác đã làm việc với đồng chí Trần Đăng Ninh, Tổng cục trưởng Tổng cục Cung cấp lúc bấy giờ để cùng xem xét. Trong lúc trao đổi, Bác chỉ cho đồng chí Trần Đăng Ninh thấy một cây xoan đang héo lá, úa ngọn và hỏi lý do tại sao cây xoan sắp chết? Đồng chí Trần Đăng Ninh trả lời: “Dạ! Thưa Bác vì thân cây đã bị sâu đục một lỗ rất to, chảy hết nhựa”. “Thế theo chú muốn cứu cây ta phải làm gì?” - “Dạ, thưa Bác, phải bắt, giết hết những con sâu đó đi”. Nghe xong, Bác gật đầu nói: “Chú nói đúng, với loài sâu mọt đục khoét nhân dân cũng thế, nếu phải giết đi một con sâu mà cứu được cả rừng cây thì việc đó là cần thiết, hơn nữa còn là một việc làm nhân đạo”. Sau một đêm thức trắng, trằn trọc, day dứt suy nghĩ, Người quyết định y án.

Di sản tư tưởng và tấm gương đạo đức mẫu mực Hồ Chí Minh về PCTNTC vẫn luôn nhắc nhở, thức tỉnh và soi sáng con đường chúng ta. Đẩy mạnh học tập, nghiên cứu và thấm nhuần những tâm nguyện, lời dạy của Người là cơ sở, nền tảng và là nguồn sinh khí mới cũng như động lực to lớn thúc đẩy cuộc đấu tranh PCTNTC trên phạm vi cả nước nói chung, ở tỉnh Quảng Trị nói riêng tiếp tục đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả toàn diện, to lớn và thiết thực hơn trong thời gian tới.

Nguồn: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Trị

Bài viết liên quan